Abstract:
Từ kết quả tham vấn nguồn lợi năm 2008-2009 và tham vấn bổ sung trong hai năm 2012-2013, xu hướng biến động nguồn lợi khai thác được phân tích và so sánh theo ba nhóm chỉ tiêu: thành phần, sản lượng và doanh thu từ hoạt động khai thác nguồn lợi. Kết quả phân tích cho thấy: 1) Thành phần khai thác đã giảm 2 đối tượng nguồn lợi là ốc sắt và cua đá và 1 đối tượng hàu giống; 2) Tổng sản lượng khai thác tăng 6% do sản lượng khai thác phểnh tăng lên đột biến (tăng 18.366,7%). Tuy nhiên, đối với từng loại nguồn lợi còn lại: phần lớn có chiều hướng suy giảm nghiêm trọng như tôm đất giảm 88,5%, cua bùn giảm 81,2%, cá giảm 81,1%, ghẹ giảm 78,7%, hàu giảm 60%, sá sùng giảm 55%; một số ít giảm không đáng kể như sìa giống giảm 16,7%, cá dìa giống giảm 15,3%; vài nhóm không thay đổi như don, dắt; và chỉ một nhóm tăng không đáng kể như cua giống tăng 12,7%; 3) Doanh thu từ hoạt động khai thác giảm 21%. Nguyên nhân bước đầu được xác định là do sự gia tăng và cải tiến của các loại ngư cụ khai thác như nhủi, lưới lồng, máy hút phểnh và sự phát triển vùng bờ ven đầm. Kết quả nghiên cứu này góp phần cung cấp dữ liệu làm cơ sở cho việc giám sát nguồn lợi thủy sản đầm Thị Nại.