Abstract:
Bài báo trình bày kết quả khảo sát chất lượng môi trường nước đầm Đề Gi vào
tháng 10/2009 (mùa mưa) và tháng 04/2010 (mùa khô). Kết quả phân tích
cho thấy nồng độ ôxy hòa tan tương đối cao (lớn hơn 5,5 mg/l). Nồng độ vật
lơ lửng (từ 24,2 mg/l đến 75,1 mg/l), nitrate (từ 32 μgN/l đến 281 μgN/l),
phosphate (từ 6,5 μgP/l đến 35,2 μgP/l), mật độ coliform (từ 0 đến
11.000 MPN/100ml) biến động trong phạm vi rộng và đôi khi cao hơn các
giá trị giới hạn (GTGH) đối với nước nuôi trồng thủy sản vào mùa mưa trong
khu vực đỉnh đầm và cửa sông. Nồng độ các kim loại nặng (Zn từ 9,2 đến
15,2 μg/l, Cu từ 1,1 μg/l đến 5,5 μg/l, Pb từ 0,1 μg/l đến 3,1 μg/l) luôn thấp
hơn các GTGH trong khi Fe (từ 76 μg/l đến 1.850 μg/l) và hydrocarbon
(405 μg/l đến 705 μg/l) có nồng độ cao hơn các GTGH trong cả 2 mùa.
Thuốc bảo vệ thực vật họ Clo hữu cơ vào mùa mưa có nồng độ thấp hơn các
GTGH trong khi họ Photpho (Paration và Malation) có nồng độ cao hơn vào
mùa khô.
Nhìn chung, chất lượng nước đầm (muối dinh dưỡng và coliform) vào mùa
khô tốt hơn so với mùa mưa. Nồng độ của tất cả các muối dinh dưỡng và đặc
biệt là mật độ coliform vào mùa khô thấp hơn so với mùa mưa trong khi độ
muối và giá trị COD có xu thế ngược lại. Không có sự khác biệt rõ ràng về
giá trị của các thông số cơ bản (pH, vật lơ lửng, DO, BOD5), kim loại nặng
(Zn, Cu, Pb, Fe) và hydrocarbon giữa 2 mùa.