Abstract:
Phôi cá khoang cổ đỏ (Amphiprion frenatus) đã được các cặp cá bố mẹ chăm
sóc đặc biệt, chúng sinh trưởng và phát triển tốt trong môi trường nhiệt độ
27 1C; độ mặn 34 - 35ppt; pH từ 8,1 đến 8,3; lượng Oxy hòa tan > 5mg/l;
NH3< 0,1mg/l và NO2 < 0,05mg/l trong thời gian từ tháng 8/2000 đến tháng
12/2000.
Trứng có hình dạng con nhộng với chiều dài trung bình 2,68 0,02mm và
chiều rộng 0,97 0,37mm. Sau khi nở 12 giờ, phôi bước qua giai đoạn phôi
tang. Sau 2 ngày, phôi chuyển giai đoạn phôi nang. Sau 40 giờ, tim phôi xuất hiện rõ và đập với tốc độ 78 lần/phút, bắt đầu nhìn thấy được mống mắt.
Ngày thứ 5, vây ngực bắt đầu xuất hiện và đã phân biệt được các nếp gấp của vây lưng và vây bụng. Ngày thứ 8, mang xuất hiện, miệng phân biệt rõ,
có thể nhìn thấy được hậu môn. Ngày thứ mười noãn hoàng đã được tiêu thụ
hết, miệng phôi mở và cá con ăn ngay sau khi nở. Cá mới nở có chiều dài
toàn thân 4,6 0,2 mm, ăn Brachionus plicatilis với mật độ 5 cá thể/ml và
bổ sung Nannochloropsis oculata mật độ 106 tế bào/ml trong 5 ngày đầu. Sau
đó, thức ăn được thay thế bằng Artemia mật độ 5 cá thể/ml. Sau một tháng
nuôi, thức ăn được thay thế bằng thức ăn tươi.
Sức sinh sản thực tế trung bình của Amphiprion frenatus là 815 trứng trong
một lần đẻ. Thời gian giữa hai đợt sinh sản của cá kéo dài từ 10 đến 14
ngày. Tỷ lệ nở trung bình của mỗi đợt là 82.09%. Tỷ lệ sống trung bình của
cá một tháng tuổi là 69.32% và tỷ lệ sống trung bình của cá ba tháng tuổi
đạt 100%.